Đàn tranh hay đàn thập lục có tên chữ Nôm: 彈箏, chữ Hán: 古箏: cổ tranh; Bính âm:Gǔzhēng. Đây là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, xuất xứ từ Trung Quốc.
Đàn tranh thuộc ho dây, chi gảy. Đàn còn được gọi là đàn thập lục do đặc điểm có 16 dây. Ngày nay được cải thiến thành 25 dây.
Ngón chơi truyền thống của đàn tranh là các quãng tám rải hoặc chập. Ngón đặc trưng nhất là vuốt trên những dây và gảy dây.
Đàn tranh được sử dụng để độc tốc, hòa tấu, đệm cho người hát. Loại đàn này cũng được chơi trong nhiều loại âm nhạc như những dàn nhạc dân ca, kết hợp cũng với các ca khúc của C-pop…

Cấu tạo của đàn tranh
- Đàn tranh có dạng hình hộp dài.
- Khung đàn hình thành, dài 110 – 120cm. Đầu lớn rộng từ 25 – 30cm, có lỗ và con chắn để mắc dây đàn. Đầu nhỏ rộng từ 15 – 20cm, được gắn từ 16 – 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn.
- Mặt đàn uống hình vòm, được làm bằng gỗ ngô đồng dài 0,05cm.

- Ngựa đàn hay con nhạn nằm ở khoảng giữa dùng để gác dây. Con nhạn có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh.
- Dây đàn trước khi sử dụng dây tơ, ngày nay được làm bằng kim loại, kích cỡ dây khác nhau.
- Khi biểu diễn, nghệ nhân đeo 3 móng gẩy vào 3 ngón cái, trỏ, giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng chất liệu như kim loại, đồi mồi hoặc sừng.